Sự nhận thức về cường độ (The Perception of Intensity)

Trước tiên, và rất quan trọng, sự nhận thức về cường độ phụ thuộc vào thời gian rất nhiều (tức là, vào thời gian duy trì (sustain) âm thanh)

1. Sự nhận thức về cường độ (The Perception of Intensity)

Đây là một đặc tính khá tốt, tiêu biểu là những đồng hồ đo VU tiêu chuẩn.Về cơ bản, những âm thanh nhanh (tạm thời) không được công nhận là lớn như là âm thanh duy trì (sustained sound) ở mức độ giống nhau.

1.1 Đường nét âm lượng quân bình (equal loudness contour)

Sự nhận thức về cường độ (The Perception of Intensity)

Ngoài vấn đề thời gian âm thanh duy trì, những thông tin cơ bản về độ lớn (loudness) cho người trung bình đã đề cập, mô tả bằng độ lớn của những đường nét cân bằng. Tuy nhiên, những đường biểu diễn này không giải thích toàn bộ câu chuyện có ý nghĩa gì. Bảng chia độ bên dưới trong hình 2 là bảng chia độ tiêu chuẩn mà mức âm lượng (loundness) gần như có liên quan đến sự nhận thức cường độ. Có thể thấy, mỗi lần tăng mức độ lớn trung bình 10dB, được coi là tăng gấp đôi âm lượng (chỉ trong phòng thí nghiệm).

1.2 Nhận thức về loudness tăng cũng có thể biểu diễn bằng đơn vị sones

Sự nhận thức về cường độ (The Perception of Intensity)

Sones nói chung, không được chấp nhận là đơn vị đo lường âm thanh, nhưng cũng phục vụ như một công cụ nghiên cứu cho âm học (acousticians), và hiển thị ở đây chỉ cho mục đích minh họa. Trong thuật ngữ thô thiển, output của hệ thống phải tăng lên mười lần (10dB) để đạt được việc tăng gấp đôi độ lớn (loudness) để người nghe loại trung bình nhận biết được. (Mức độ lớn theo sau những đường biểu diễn được thể hiện trong hình 1). Khi thực hiện thực tế, sự cảm nhận độ lớn (loudness) của một hệ thống âm thanh cũng rất phức tạp bởi sự che đậy - (masking) (thể hiện trong hình 3) và những yếu tố tâm lý âm học (psych-acoustic) khác. Một sự thay đổi ngưỡng tạm thời ở cấp độ âm thanh cao cũng có thể làm thay đổi nhận thức về sự tăng loudness. Hãy xem cẩn thận những câu viết bên trên.

1.3 Đường biểu diễn sự che đậy (masking curve) điển hình

Sự nhận thức về cường độ (The Perception of Intensity)

Bảng chia độ trong hình 2 là một hướng dẫn rất hợp lý, nhưng trong đời sống thực tế, sự quan hệ này thường không hoàn toàn trực tiếp trong live pro-sound. Sự gia tăng mức độ ngã ra (output level) cho hệ thống âm thanh ở mức độ thấp là một cảm nhận khác với sự gia tăng tương đương cùng một hệ thống, đạt đến cho người nghe ở mức âm thanh có áp suất cao hơn. Một trong những lý do cho điều này là hệ thống phải đạt đến một mức độ nhất định đối với những âm thanh đã hoàn thiện trước mức độ tự làm tăng, tạo ra nhiều sự khác biệt, ngoài việc điều chỉnh phụ nhỏ ngày càng quan trọng. Nhưng ngay cả khi tính toán cho điều này, sự gia tăng mức tổng thể nhanh (kết hợp âm lượng sân khấu và âm lượng hệ thống) ở mức độ vừa phải (gọi là từ 85dB LL đến 90db LL) có thể không đáng kể như sự gia tăng tương tự ở mức độ rất cao (từ 105dB LL đến 110dB LL), vì âm thanh mức cao đang tiến tới một giải mà hầu hết người nghe sẽ bị bão hòa.

1.4 Hậu quả khi gia tăng mức độ cao vào tai người nghe

Sẽ xảy ra điều gì khi gia tăng mức độ cao vào tai người nghe, thí dụ, 100dB 110dB LL trở lên (không có gì lạ trong âm nhạc công suất lớn, nơi khán giả thường xuyên yêu cầu âm lượng như vậy?). Oh, trong thời gian ngắn, tai sẽ điều chỉnh lại. Xương ở tai giữa hơi dời chỗ đi để giúp bảo vệ dây thần kinh khỏi bị thiệt hại, cái này gọi là sự dịch chuyển ngưỡng tạm thời (temporary threshold shift). (Chuyển động này có thể là một phần lý do tại sao độ nhạy tần số rất cao, có khuynh hướng thoát đi nhanh hơn ở những mức độ cao như vậy). Lâu dài, (giả sử nghe biểu diễn ngày qua ngày, đêm qua đêm, hay tại nhà cũng thường xuyên có những sự kiện như vậy) việc thay đổi ngưỡng thường xuyên có thể dẫn tới dễ bị mất thính lực (điếc). Rõ ràng, phải thường xuyên thận trọng để đối phố với những hệ thống âm lượng cao.

Trong ngắn hạn, cho hệ thống chạy ở mức độ rất cao có thể làm khán giả nghe mệt mỏi và sẽ phản tác dụng cho buổi biểu diễn âm nhạc hay bài diễn văn đạt được hiệu quả. Đạt được âm thanh mạnh, trong tình huống cường độ của sự biểu diễn cho phép, không có nghĩa cho ra âm thanh làm điếc tai người nghe. Cảm nhận cường độ cho phép của con người chỉ ở mức độ tương đối khiêm tốn. (Dĩ nhiên âm thanh này có thể rất khác nhau, tùy thuộc vào đối tượng và loại âm nhạc).

2. Vài yếu tố liên quan nhận thức về cường độ

Sử dụng những đường nét có độ lớn cân bằng là đã đi quá xa để hướng tới mục tiêu này. Cơ chế nghe của con người sử dụng tín hiệu mạnh với cường độ đáng chỉ trích, có liên quan đến những tần số cạnh (edge trequency), có khuynh hướng tập trung tại khu vực 4kHz đến 8kHz.

Cũng có thể thêm vài loại méo tiếng (distortion) để tạo cường độ rõ rệt (apparent intensity). Dĩ nhiên, đó là tại sao người chơi guitar điện sử dụng nó thường xuyên. Một phần, vì tần số cạnh (edge) cũng tăng lên khi méo tiếng. Khi đó, tai không chỉ nghe những họa âm bình thường trong giải tần số cạnh, nhưng cũng còn nghe sự méo họa âm (harmonic distortion). (Điều này, tình cờ, cũng là lý do tại sao phần lớn hợp âm rất du dương thường không phải là âm thanh đúng khi chơi méo tiếng mạnh (strong distortion). Những hợp âm méo tiếng tốt thường có khoảng thời gian mở lớn âm nhạc (large open musical interval) ở giữa khoảng hợp âm thứ 4 và thứ 5, trong khi những hợp âm du dương của họa âm méo tiếng cao hơn có khuynh hướng làm cho người khác nghe chói tai). Lý do có lẽ hiển nhiên khác để cảm nhận thêm cường độ do méo tiếng, là tất cả mọi người trong thế giới hiện đại đã từng nghe hệ thống

Hiển thị ở đây là những khu vực xảy ra sự che đậy khi tone 415Hz (tần số cơ bản của nốt La giảm (Ab) trên nốt Do (C) giữa) được tái tạo cùng với một tone thứ hai. (Với những tần số khác, đường biểu diễn này sẽ có khuynh hướng chuyển sang trái hay phải cho phù hợp). Đặc tính này có tầm quan trọng sóng còn trong âm thanh pro, và trong sự hiểu biết về việc nghe nói chung. Âm thanh nghe một mình nó hoàn toàn khác so với khi nghe nó như là một phần của sự pha trộn âm nhạc. Đồng thời, tiếng noise hay tiếng nói nhanh khác trong môi trường có thể tác động nghiêm ngặt đến các yêu cầu phải có tiếng noise thấp cho hệ thống, mặc dù nó phụ thuộc vào cái gì có liên quan đền tần số của noise, và trong mức độ tương đối. Ngoài ra, bất kỳ sự méo tiếng nào đó rơi xuống dưới những đường biểu diễn này sẽ có khuynh hướng không còn quan trọng nữa. PA hay hệ thống âm thanh stereo bị méo, do đó khuynh hướng tự nhiên sẽ thích cảm nhận cái gì đó như quá tải. Không ai khuyên bạn nên làm sai lệch hệ thống PA để đạt được hiệu ứng này. (Đừng cười quá lớn, nó có thể tuyệt vời, có rất nhiều người điều khiển hệ thống âm thanh cho nhạc rock và nhạc strong dance đều không hài lòng cho đến khi hệ thống PA bị bắt làm quá sức và quá tải. Điều này là cái bẫy chung, thường gây ra phần lớn sự thay đổi ngưỡng tạm thời ở mức cường độ cao. Tai có điều chỉnh cho một cấp độ cường độ, khuynh hướng này thường để tăng gain hệ thống đạt nấc tiếp theo, mà tai đã điều chỉnh, v.v).

Một yếu tố quan trọng liên quan đến việc nhận thức về cường độ, cũng có rất nhiều tần số phụ thuộc, nhưng theo cách khác. Chẳng hạn, nếu bạn tạo một âm sắc (tone) 10.000Hz cùng với tone 500Hz ở mức thấp hơn nhiều, bạn vẫn có thể nghe rõ cả hai tone. Nhưng nếu chúng ta đồng thời tái tạo một tone 600Hz ở mức độ cao hơn nhiều so với tone 500Hz, những tone cường độ thấp hơn sẽ khó nghe hơn. Điều này phần lớn do đặc tính gọi là tính che đậy (mặt nạ-masking). Bất cứ khi nào hai hay nhiều âm thanh được nghe cùng một lúc, đến gần tần số nó có được với nhau, càng ít khả năng chúng ta nghe thấy tone nào đó có cường độ thấp hơn. Đặc tính này rất quan trọng, cần ghi nhớ khi mix âm thanh lại với nhau, vì âm thanh khi nghe một mình nó thường hoàn toàn khác khi nghe nó như một phần của hỗn hợp mix. Điều này là do giải tần số nào đó bị che đậy bằng nhạc cụ khác hay tiếng nói (voice). Sự che đậy cũng tham gia trong nhiều cách khác. Một thí dụ rõ, hệ thống tiếng noise trong môi trường yên tĩnh dễ nghe hơn trong môi trường ồn ào. Che đậy (masking) là đặc tính khá phức tạp. Thí dụ, tần số thấp sẽ có khuynh hướng che đậy tần số cao hơn, hiệu quả hơn những cách khác.

3. Mixer Behringer EUROPOWER PMP2000

Sự nhận thức về cường độ (The Perception of Intensity)

Mixer Behringer EUROPOWER PMP2000 mang đến cho bạn sự lựa chọn của 2 stereo 350-Watt x 2 x 350-Watt kép mono hoặc 800-Watt mono cầu nối. Cho dù trung tâm của sự chú ý sẽ xảy ra là một bộ ba dân gian, bài phát biểu, hoặc một ban nhạc synth-rock với tâm-boggling các bản vá lỗi âm thanh stereo, PMP2000 có thể phục vụ. Tính linh hoạt âm này cũng làm cho nó một sự lựa chọn tuyệt vời cho các nhà thờ, nơi giọng hát và ghi âm thanh stereo thường xuyên chia sẻ thời gian đối mặt.

Nếu bạn cần âm thanh stereo cao cấp cho các hợp đồng biểu diễn câu lạc bộ nhỏ, nhà thờ hoặc các bài phát biểu, nhưng để giữ cho các thiết bị phía ngoài ở mức tối thiểu, PMP2000 10-kênh có thể thực sự cung cấp. Trộn 800-Watt này đã được xây dựng trong mic tiền khuyếch đại và xử lý một FX, cũng như đủ sức mạnh để lái xe cả hai nguồn điện và màn hình, nhờ amps điện trên bo mạch kép 350-Watt.

Xem thêm:

TCA lắp đặt âm thanh